Du học nhật bản 2014

Du học nhật bản giá rẻ

Hiển thị các bài đăng có nhãn dai hoc o nhat. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn dai hoc o nhat. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Đại học ở Nhật bản phát triển

Đại học ở Nhật bản phát triển qua các thời kỳ
dai hoc nhat banNhật bản được xem như một xã hội văn minh, nó được phát triển qua các thời kỳ, thế nhưng chiến tranh và thuộc địa vẫn không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của họ, những giai đoạn phát triển được đánh giá như một móc son sáng chói cho nền khoa học kỹ thuật nước này. Sau đây là những giai đoạn phát triển của hệ thống giáo dục đại học tại Nhật.

         Bốn giai đoạn phát triển của đại học Nhật bản


Bốn giai đoạn phát triển hệ thống giáo dục đại học của Nhật cũng có thể cung cấp cho chúng ta một vài bài học và kinh nghiệm đáng tham khảo. Đáng tham khảo bởi vì Nhật cũng xuất phát từ một nước nông nghiệp, và cũng kinh qua một thời gian chiến tranh khốc liệt.

Giai đoạn 1: Tây phương hóa.
đại học nhật bảnĐược khởi xướng từ thời Minh Trị Thiên Hoàng từ năm 1868. Trong giai đoạn này, Nhật cảm thấy bị đe dọa bởi các thế lực quân sự và kỹ nghệ của thế giới phương Tây, nhưng họ thấy đó là một cơ hội để tái cấu trúc hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế, chuẩn bị cho sự nghiệp kỹ nghệ hóa đất nước. Minh Trị nhận thức rằng Nhật cần phải nắm lấy và làm chủ những “know-how” của phương Tây.

Năm 1877, Đại học Tokyo được thành lập (trước đây trường này chỉ là một trường cao đẳng dạy ngoại ngữ và y học cổ truyền). Đại học Tokyo lúc đó có 4 khoa: luật khoa, khoa học, văn khoa và y khoa. Trong giai đoạn phát triển này, phần lớn giáo sư là người ngoại quốc. Trong số 36 giáo sư, có đến 23 người là giáo sư từ Anh, Pháp, Đức và Mỹ. Ngay cả những giáo sư người Nhật cũng là những người từng tốt nghiệp từ các nước vừa kể.

Trong thời gian 20 năm sau đó, có đến 400 giáo sư từ các nước phương Tây được Bộ Giáo dục Nhật mướn (hay mời) dạy tại các đại học và cao đẳng trên khắp nước Nhật. Không chỉ trong ngành giáo dục, Nhật còn mướn các chuyên gia phương Tây để làm việc và hướng dẫn trong các ngành như khai thác hầm mỏ, đường sắt, điện lực, điện tín, hãng xưởng…

Cùng lúc với sự hình thành của Đại học Tokyo, Nhật tích cực gửi sinh viên sang các nước phương Tây theo học tại các trường danh tiếng trên thế giới. Những “hạt nhân” đó sau này nắm giữ những chức vụ quan trọng trong hệ thống đại học và chính quyền.

Giai đoạn 2: Cách mạng kỹ nghệ và đại học.

đại học nhật bảnGiai đoạn này được đánh dấu qua việc thiết lập hệ thống “đại học vương triều” (Imperial University System), và định hướng rõ ràng rằng giáo dục phải phục vụ cho các mục tiêu của nhà nước. Năm 1890, (Đại học) Tokyo Imperial University được cho phép thành lập thêm một khoa mới: đó là khoa nông học. Năm 1897, (Đại học) Kyoto Imperial University được thành lập theo mô hình của Đại học Tokyo. Kể từ đó, một số đại học trong hệ thống vương triều được thành lập, như Tohoku Imperial University (1907), Kyushu Imperial University (1910). Cả hai trường mới này chuyên về khoa học ứng dụng.

Thời gian mà các đại học vương triều ra đời trùng hợp với giai đoạn cách mạng kỹ nghệ ở Nhật. Cuộc cách mạng kỹ nghệ chủ yếu xảy ra ở ngành dệt và kỹ nghệ nhẹ, và chính các ngành “nhẹ” này đã là những viên gạch lót đường để Nhật trở thành một cường quốc kỹ nghệ sau này. Các đại học vương triều có nhiệm vụ phải đào tạo các kỹ sư và khoa học gia, chuyên gia để đáp ứng nhu cầu của cuộc cách mạng kỹ nghệ. Mặc dù ý thức được rằng đại học còn phải đào tạo các nhà nghiên cứu, nhưng trong giai đoạn mà công nghệ của Nhật còn quá thô sơ, họ chủ yếu nhắm vào việc đào tạo chuyên gia lành nghề, và việc đào tạo chuyên gia nghiên cứu chỉ tập trung ở các đại học lớn như Tokyo và Kyoto. Song song với sự ra đời của các đại học vương triều, Nhật còn thành lập một số trường cao đẳng kỹ thuật (technical college). Các trường cao đẳng có nhiệm vụ giới thiệu các công nghệ của thế giới phương Tây nhưng có ứng dụng thực tế vào điều kiện phát triển ở Nhật. Đến năm 1910, Nhật đã có 17 trường cao đẳng kỹ thuật, và mỗi năm huấn luyện được hàng ngàn chuyên viên kỹ thuật.

Trong thời kỳ này, Nhật còn có một số đại học tư thục, tuy lúc đó các trường này chưa được công nhận là “đại học” mà chỉ là những “trường đặc biệt” (special schools). Mãi đến năm 1918 các trường đại học tư thục mới được chính thức công nhận là đại học. Sau này, một số trường tư thục đó trở thành những đại học danh tiếng. Chẳng hạn như Đại học Keio được thành lập năm 1868 (do gia đình của Fukuzawa Yukichi thành lập), Đại học Doshisa (của Niijima Jo lập năm 1875), Đại học Waseda (do Okuma Shigenobu lập năm 1882) đã có công đào tạo các chuyên gia kỹ thuật và quản lý cho các công ty tư nhân, và đóng góp một phần lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa của Nhật.

Giai đoạn 3: Hậu chiến và phát triển.
dai hoc nhat banTrong thời gian chiến tranh, Nhật đã làm được một điều kỳ diệu: phát triển đại học và kỹ nghệ. Cuộc chiến Nga - Nhật (1904-1905) là giai đoạn Nhật “củng cố lực lượng” để xây dựng và bành trướng thực lực quân sự. Đến thế chiến 1914-1918 thì thực lực quân sự của Nhật đã được chứng minh.

Thế chiến thứ nhất là động cơ để Nhật tiến hành một cuộc cách mạng kỹ nghệ thứ hai. Trong cuộc cách mạng này, Nhật tập trung vào kỹ nghệ nặng như đóng tàu, sản xuất sắt thép, sản xuất máy kỹ nghệ, hóa học… Trong thời gian 1915-1918, sản lượng kỹ nghệ của Nhật tăng sáu lần, và lần đầu tiên, sản lượng kỹ nghệ qua mặt sản lượng nông nghiệp, biến Nhật thành một nước công nghiệp tiên tiến.

Năm 1918 đạo luật thành lập các đại học địa phương và đại học vùng ra đời. Đạo luật còn cho phép thành lập các đại học chuyên ngành như đại học chuyên về kỹ thuật, kinh tế, nông học…

Đến năm 1930, Nhật đã có bảy đại học vương triều, với ba đại học mới là Hokkaido, Osaka và Nagoya. Các đại học vương triều mới này chuyên về khoa học và công nghệ. Trong cùng thời gian này, các đại học cũ hơn như Tokyo và Kyoto bắt đầu thành lập các viện nghiên cứu trong và ngoài đại học. Phần lớn các viện nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu về vật lý, hóa học, công nghệ hàng không. Trong giai đoạn này, Nhật đã có một hệ thống đại học hoàn chỉnh và tạo được một nền tảng cho phát triển khoa học kỹ thuật trong tương lai.

Giai đoạn 4: Hoàn thiện.
dai hoc nhat banGiai đoạn phát triển thứ tư này kéo dài từ Thế chiến thứ hai cho đến nay. Trong giai đoạn đầu sau khi Nhật đầu hàng, tương lai nước Nhật nằm trong tay của lực lượng chiếm đóng, và tương lai đất nước còn khá mập mờ. Năm 1949, chính quyền chiếm đóng đề nghị một cuộc tổng cải cách giáo dục trên toàn quốc. Theo đó, tất cả các đại học - từ hệ thống đại học vương triều đến đại học địa phương và tư thục - đều phải theo một chương trình đào tạo thống nhất: đó là bốn năm cho cấp cử nhân. Đến năm 1950, Nhật đã có 201 trường đại học, cao đẳng và viện nghiên cứu.

Đến năm 1952, khi Nhật được trao quyền tự trị, tương lai của Nhật có vẻ rõ ràng hơn. Người Nhật nhận thức rõ rằng để tồn tại trên thế giới với sự hạn chế tài nguyên thiên nhiên, Nhật tùy thuộc rất lớn vào khả năng kỹ nghệ. Để phát triển kỹ nghệ, họ cần phải phát triển hệ thống giáo dục đại học đến một tầm cao hơn. Năm 1956, một tài liệu về giáo dục cao đẳng của Anh (White Paper on Technical Education) được dịch sang tiếng Nhật, và trở thành một tài liệu tham khảo quan trọng, một kim chỉ nam cho hệ thống giáo dục đại học của Nhật sau này.

Năm 1956, Cục Khoa học và Công nghệ được thành lập, và năm 1960 Hội đồng Khoa học và Công nghệ đề xuất một số chính sách để phát triển khoa học và công nghệ trong vòng 10 năm. Những đề nghị này trở thành định hướng phát triển và hoàn thiện hệ thống đại học cho đến ngày nay.

Ngày nay, Nhật có hơn 725 trường đại học và 518 trường cao đẳng. Chất lượng đào tạo đại học của Nhật được thế giới công nhận. Hiện nay, Nhật có 11 trường đại học được xếp vào hạng “top 200” trên thế giới, với Đại học Tokyo (hạng 19) và Kyoto (hạng 25). Trong thời gian 1997-2001, các nhà khoa học Nhật công bố khoảng 336,858 bài báo khoa học, chiếm 9,3% tổng số bài báo khoa học trên thế giới. Số ấn phẩm khoa học của Nhật đứng vào hàng thứ tư trên thế giới, chỉ sau Mỹ, Liên hiệp châu Âu, Anh và Đức

Các trường đại học tại Nhật bản đào tạo dự trên tiêu chí chất lượng

dai hoc nhat banĐại học tại Nhật bản

Các trường đại học tại Nhật bản đa phần áp dụng phương thước đào tạo dựa trên phương diện được đánh giá chung phải chất lượng. Ngoài ra Bộ giáo dục Nhật bản cũng khuyến khích thúc đẩy các trường cùng tham gia tư tưởng này. Như vậy chất lượng đào tạo tại Nhật bản luôn luôn được cải thiện theo phương hướng phát triển kinh tế của quốc gia này và trên thế giới.

Nhật Bản là một trong những quốc gia có hệ thống giáo dục lâu đời và ổn định nhất châu Á. Tuy nhiên, ngày nay các trường đại học tại Nhật bản đang chạy đua tìm ra những cách thức mới để thu hút sinh viên.

Nhiều năm tỉ lệ sinh ở mức thấp khiến dân số trẻ Nhật Bản giảm mạnh, ngày càng có nhiều trường đại học tại Nhật bản khó có thể tìm đủ sinh viên cho các lớp học và khuôn viên trong trường.

Tình trạng dân số già của Nhật Bản còn ảnh hưởng tới nhiều khía cạnh xã hội khác, trong đó có hệ thống giáo dục cấp thấp khi hàng trăm trường cơ sở và trung học phải đóng cửa hoặc hợp nhất với nhau trong hai thập niên qua. Song gần đây, nó mới ảnh hưởng tới hệ thống giáo dục ở mức cao hơn.

Làn sóng của Nhật Bản thời hậu chiến bắt đầu sớm hơn Mỹ. Kết quả là, theo thống kê dân số học, số người Nhật Bản ở độ tuổi 18 đã đạt đỉnh 2,05 triệu người năm 1992, khi những đứa trẻ của làn sóng đến lúc bước chân vào các giảng đường đại học tại Nhật bản. Con số này giảm dần đều qua từng năm và đạt 1,3 triệu người trong năm nay, ước tính trong hai năm tới, còn tiếp tục giảm xuống còn 1,21 triệu người.

Như vậy, theo Bộ Giáo dục và nhóm các trường đại học tại Nhật bản thì năm nay gần 1/3 trên tổng số 707 trường đại học tư và công với chương trình kéo dài bốn năm, sẽ không thể có đủ sinh viên cho tất cả các khoa. Có khoảng gần một nửa học sinh trung học Nhật Bản theo học đại học tại Nhật bản.

Tại Đại học Kinh tế Fukuoka ở Kyushu, một hòn đảo phía nam Nhật Bản, cơ quan hữu quan đã đối phó bằng cách phê chuẩn dự án trị giá 50 triệu USD để xây dựng khu ký túc xá cao cấp, với tất cả 700 phòng riêng lẻ - kiểu khuôn viên xa xỉ so với mô hình ký túc xá truyền thống Nhật Bản, tất cả đều được kết nối Internet.
Rất nhiều trường đại học tại Nhật bản đã ‘’đối phó’’ bằng cách áp dụng những công cụ mới để ‘’săn’’ sinh viên tương lai, như người nước ngoài hay lớp ‘’sinh viên bạc’’ - những người đã nghỉ hưu nhưng vẫn đi học. Trong tháng 3, Trường Đại học Osaka đã cấp bằng tiến sĩ toán học cho một kỹ sư 71 tuổi - người đã đăng ký học ở trường sau khi nghỉ hưu.

Trường này còn thực hiện chính sách giảm học phí xuống còn 590.000 yen, vào khoảng 5.000 USD. Fukuoka còn mở ra chuyên ngành ‘’kinh doanh danh tiếng’’, chuyên đào tạo nghệ sĩ chuyên nghiệp sau khi nhà trường thực hiện một cuộc thăm dò và thấy rằng, rất nhiều bạn trẻ Nhật Bản muốn theo đuổi các ngành mới như âm nhạc hơn là những vị trí ‘’làm công ăn lương’’ mà các thế hệ trước từng làm.

Viễn cảnh các trường đại học tại Nhật bản phải đua tranh với nhau để giành sinh viên đã tạodai hoc nhat ban ra ít nhiều lo lắng về tương lai giáo dục cấp cao ở Nhật. Kể từ khi thành lập năm 1877 và là một trường đại học tại Nhật bản hiện đại đầu tiên của quốc gia, Đại học Tokyo cùng với các trường đại học khác qua kỳ thi đầu vào được coi là bộ máy chính của xã hội để tuyển chọn thanh niên ưu tú vào các vị trí hàng đầu trong ngành kinh doanh và những cơ quan chính phủ. Rất nhiều người quan ngại rằng, bộ máy này có suy yếu nếu các trường đại học giảm ‘’mức chuẩn’’ để thu hút sinh viên.

Nhưng ở một đất nước mà giáo dục tại bậc cao hơn (bốn năm) luôn được xem là cửa ngõ bước vào công việc, sự nghiệp tương lai, nhiều quan chức lại hoan nghênh sự cạnh tranh và cho rằng, nó sẽ thúc đẩy các trường hoặc phải cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng, hoặc đi vào ngõ cụt. Atsushi Hamana, Hiệu trưởng Trường Đại học quốc tế Kansai ở Miki nói, các trường đang nhận thức rõ là, giới trẻ hiện nay trên thực tế luôn muốn học hỏi mọi kỹ năng để cạnh tranh trong một nền kinh tế toàn cầu.

>> Xem tiếp: du học Nhật bản

Đại học Nhật bản đông du học sinh Việt Nam nhất được bình chọn

dai hoc nhat ban

Đại học Nhật bản


Hiện trên cả quốc gia Nhật bản có rất nhiều trường, từ trung tâm, trường tiếng, trường trung cấp, trường cao đẳng, trường đại học và cao học trải dài từ bắc đến nam. Việc du học sinh đi du học Nhật bản cũng rất dễ chọn lựa ngành học và vùng mà du học sinh cần học, nhưng đối với hệ đại học có trường đại học Nhật bản APU là có số lượng du học sinh Việt Nam nhiều hơn các trường khác.
Ở Nhật Bản, thành phố Beppu nổi tiếng là nơi có hàng nghìn suối nước nóng lớn nhỏ, thu hút hàng triệu du khách trong và ngoài nước đến nghỉ dưỡng, có trường Đại học Quốc tế Ritsumeikan châu Á Thái Bình Dương (Ritsumeikan APU) đông sinh viên Việt Nam nhất tại Nhật.
Đại học Ritsumeikan APU Đại học mang tính quốc tế hàng đầu Nhật Bản
Đại học Ritsumeikan APU được thành lập vào ngày 1/4/2000 tại thành phố Beppu, thuộc tỉnh Oita, Kyushu, một trong 4 hòn đảo chính của Nhật. Đảo Kyushu ở miền Tây Nam được coi là cửa ngõ của Nhật Bản nhìn ra châu Á. Đây là Đại học thuộc Tập đoàn Giáo dục Ritsumeikan - một trong những tập đoàn giáo dục có uy tín nhất Nhật Bản với hệ thống các trường từ bậc tiểu học cho đến trên đại học, và được coi là tập đoàn giáo dục mang tư tưởng đổi mới nhất nước Nhật.

Được xây dựng trong thời đại toàn cầu hóa với mục đích trở thành trường đại học mang tính quốc tế nhất tại Nhật, với chính sách hướng ngoại mạnh mẽ, Ritsumeikan APU có ưu thế là tiếp nhận và giảng dạy các sinh viên và nghiên cứu sinh không chỉ bằng tiếng Nhật mà cả tiếng Anh. Nhờ vậy, những sinh viên chưa hề biết tiếng Nhật nào nếu thông thạo tiếng Anh vẫn có thể theo học tại  Đại học này mà không gặp trở ngại về ngôn ngữ. Bất cứ biển hiệu nào trong trường cũng đều được in bằng 2 thứ tiếng Nhật và Anh.

Thống kê của nhà trường, tính đến giữa năm 2008, đã có khoảng hơn 200 sinh viên Việt Nam theo học tại Ritsumeikan APU. Trong số hơn 80 quốc gia có sinh viên đang học tập tại Đại học Ritsumeikan APU, Việt Nam là nước đứng thứ tư sau Hàn Quốc, Trung Quốc, và Thái Lan về số lượng sinh viên, nghiên cứu sinh theo học. Đứng ngay sau Việt Nam là Indonesia, Mông Cổ, Đài Loan. Đây cũng được coi là nơi có đông sinh viên Việt Nam nhất tại Nhật bản hiện nay.
dai hoc nhat banVới những đặc điểm hấp dẫn như vậy, Đại học Ritsumeikan APU đã nhanh chóng trở thành một địa chỉ tin cậy và hấp dẫn đối với sinh viên quốc tế với cả hệ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ. Đó là những lý do khiến Đại học Ritsumeikan APU là địa chỉ đã được nhiều sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam lựa chọn khi sang Nhật Bản du học. Hiện nay Ritsumeikan APU đã đón nhận trên 6.000 sinh viên từ ít nhất 82 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đến theo học, trong đó có nhiều sinh viên Việt Nam.

Được kế thừa bề dày lịch sử trên 130 năm của Tập đoàn Giáo dục Ritsumeikan, Đại học Ritsumeikan APU đã triển khai cực kỳ mau lẹ việc xây dựng quan hệ với các trường đại học trên thế giới. Tại Đại học Ritsumeikan APU có giáo sư, nhân viên từ khoảng 30 nước tới làm việc, với tỷ lệ 50% quốc tế, 50% Nhật Bản. Do vậy, tất cả những hoạt động của trường vừa mang đậm nét Nhật Bản, vừa mang tính đa văn hóa rất cao. Đó cũng chính là nét đặc sắc và độc đáo nhất mà không nhiều trường đại học trên thế giới có được. Hiện Ritsumeikan APU đã có quan hệ với trên 145 trường đại học của gần 50 nước, trong đó có ít nhất 7 trường đại học ở Việt Nam.

Ấn tượng chung đối với những người Việt khi đến Đại học Ritsumeikan APU là ở đây có rất nhiều sinh viên Việt Nam. Cứ mấy bước chân lại bắt gặp một hoặc một vài sinh viên người Việt. Trong sân trường hay dọc các hành lang, thỉnh thoảng lại vang lên những tràng tiếng Việt đủ mọi miền. Có sinh viên từ thành phố Hồ Chí Minh, có người đến từ Hà Nội, Đà Nẵng, Bắc Giang, Thái Bình... sang đây học tập.

Trong số các chuyên ngành của Đại học Ritsumeikan APU, các ngành Văn hóa và Ngôn ngữ, Quản trị kinh doanh châu Á Thái Bình dương (College of Asia Pasific Management) được nhiều sinh viên Việt Nam chọn theo học. "Tại Ritsumeikan APU, tôi có cơ hội tiếp cận với môi trường quốc tế với giảng viên và bạn bè đến từ nhiều quốc gia. Bằng những trang thiết bị và nền giáo dục của một trong số những trường đại học hiện đại nhất tại Nhật Bản, Ritsumeikan APU không chỉ cung cấp cho tôi kiến thức chuyên ngành mà còn rất nhiều cơ hội thực hành", bạn Đỗ Diệu Hương, sinh viên năm 4 cho biết.

Đại học Ritsumeikan APU đã được đón một số nhà lãnh đạo nước ta đến thăm như cựu Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, cựu Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh Hiển và cựu Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Chu Tuấn Cáp... Tại lối ra cổng chính khu giảng đường của trường có một dãy bảng kính được treo nổi bật ở vị trí rất trang trọng dọc lối đi, trên đó có khắc tên của ba nhà lãnh đạo và quan chức Việt Nam kể trên.

Mục tiêu của Ritsumeikan APU là chọn lựa và đào tạo ra những trí thức có khả năng lãnh đạo trong môi trường quốc tế, đặc biệt là khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Vì thế Ritsumeikan APU có các lớp học ngôn ngữ của khu vực như tiếng Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indo-Malay và tiếng Tây Ban Nha như là cách trang bị công cụ làm việc cho sinh viên sau này. Khi đến thăm Đại học Ritsumeikan APU, nếu gặp người nào chào mình bằng tiếng Việt thì bạn đừng vội nghĩ rằng họ là người Việt Nam. Đó có thể là một trong số đông đảo những sinh viên của lớp tiếng Việt của trường Đại học tuy còn trẻ nhưng đã thu hút rất nhiều sinh viên quốc tế này.

Theo ông Monte Cassim, Chủ tịch Đại học Ritsumeikan APU, sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam tại Ritsumeikan APU được đánh giá rất cao về kết quả học tập. Mỗi đợt trao học bổng của Đại học Ritsumeikan APU, đều đã có hơn 70 sinh viên Việt Nam được nhận học bổng các mức và theo học tại trường ở các hệ đào tạo đại học và sau đại học.

Anh Tahara Hiroki, Phó Ban tuyển sinh quốc tế của Đại học APU đồng thời là giảng viên tiếng Việt của trường cho biết, mặc dù số lượng sinh viên Việt Nam du học tại các trường đại học của Nhật Bản đang tăng nhanh hằng năm, nhưng số lượng sinh viên Việt Nam theo học ở Ritsumeikan APU vẫn gây chú ý nhất trong các trường đại học Nhật bản có sinh viên Việt Nam ở Nhật Bản. Sinh viên Việt Nam thường được khen là thông minh, làm việc chăm chỉ có kỷ luật.